Di tích lịch sử, văn hóa Ngư_Lộc

Nghè-chùa-phủ-miếu Diêm Phố được xây dựng chung trong một quần thể kiến trúc rộng khoảng 2 sào Trung Bộ. Kiến trúc này hài hòa về mặt không gian cây cối và cảnh vật. Toàn bộ khu kiến trúc được bao bọc bởi hàng phi lao xanh, vừa là hàng rào bảo vệ vừa tạo cảnh quan và giữ cho bên trong sự tĩnh lặng cần thiết cho tín lễ. Mặt của khu kiến trúc hướng ra biển, có cổng Tam Quan đồ sộ. Từ cổng Tam Quan trở vào có con đường lớn chạy đến cửa đền, đồng thời chia đôi khu di tích này thành hai phần, có các đường xương cá để vào nghè, đề, chùa, miếu, phủ. Trong quần thể này có Nghè thờ Tứ Vị Thánh Nương, Chùa Liên Hoa, Đền thờ Đức Ông và Miếu thờ chung 344 người Diêm Phố tử nạn trong bão (1931)[14].

Nghè Thánh Cả và Bản thổ thần

Làng Diêm Phổ nằm sát ven bờ biển. Hằng năm do nạn biển lấn nên làng bị sạt lở dần. Ngôi nghè cả được xây dựng từ khi mới thành lập đến nay đã qua 4 lần xây dựng lại, xây dựng gần đây nhất là vào năm 1946. Tuy trải qua nhiều lần xây dựng lại nhưng nghè vẫn giữ được kiểu kiến trúc xưa, mặt ngoảnh hướng Nam. Kiến trúc của nghè theo phép đối xứng rất cân đối giữa nghè chính, tam quan và hai dải vũ, ở giữa là một sân gạch hình chữ nhật[14].

Nghè chính được xây dựng bằng gạch vồ, vôi hầu trộn với mật mía và giấy bản để xây tường, cột trụ, rui, mè đều là những thứ gỗ không bị mọt, các chuồng cửa đều bằng lim, mái nghè lợp bằng ngói. Nghè có kiến trúc vững trãi, đường nét uyển chuyển, bề thế.Gian trong cùng là chính tẩm dài 4m rộng 5m. Bệ thợ xây chính giữa sát tường hậu, trên mặt bệ đặt ngai, trong ngai là thánh thẻ, tất cả đều sơn son thiếp vàng. Trước ngai là bát hương Tứ vị. Trước bát hương là một mâm gỗ hình chữ nhật có bốn chân, dùng đặt lễ phẩm, trước mâm là hòm sắc cũng đều sơn son thiếp vàng. Phía trên trước cửa chính tẩm treo một bức đại tự bốn chữ: "Tứ vị Thánh Nương"[14].

Tiền đường gồm ba gian chiều rộng 9m, chiều sâu 5m. Bệ thờ xây ở gian giữa sát cửa chính tẩm, trên bệ đặt bát hương lớn thờ hội đồng, một mâm bồng lớn đặt lễ phẩm, hai bên đặt hai cây sáp, đôi hạc thờ, ở giữa đặt một lư hương lớn bằng đồng. Trước bệ thờ đặt một trống đồng cao 0,60m, mặt trống có đường kính 0,50m. hai bên đặt các giá bát biểu và giá treo trống, chiêng. Trong tiền đường có treo ba đôi câu đối. Hai gian bên đặt kiệu bát cống và kiệu Long Đình và ở cửa ngoài tiền đương cũng có câu đối[14].

Thềm tiền đường có bật đá lan giai, riêng thềm gian giữa có bật đá lan giai xuống đến sân gạch, lan can là hai con rồng chầu cao 1m dài 2.5m được đắp bằng vôi hầu, mật mía và giấy bảm. Nối với bật thềm là một sân nhỏ lát gạch bát, rộng bằng chiều rộn tiền đường.Tiếp với sân nhỏ là trung đường gồm 5 gian, rộng 12m, dại 5m, trung Đường là nơi hội họp của chức sắc và hương lão, có xây các bệ làm nơi ngội. Thêm trung đường cũng lát bậc đá lan giai, nối với sân lát gạch bát rộng 9m[14].

Hai bên sân là hai nhà dải vũ được cấu tạo bằng gỗ lim lợp ngói, mỗi dãy 5 gian úp mặt vào nhau theo hướng Đông và Tây. Nối với sân lát gạch là cửa Tam quan. Cửa cao 8m, dài 5m, rộng 4m. Bậc lan can lên xuống chạm một đôi rồng đá thời Lê dài 2.5m cao 1m. Nghè được xây tường bao chung quanh làm thành một khuôn viên riêng biệt[14].

Chùa Liên Hoa

Chùa được xây dựng theo kiểu hình chữ Đinh, nằm sát liền nghè hơi chếch về phía tây nam. Chùa ngoảnh hướng đông, trước mặt có cửa tam quan có ba tầng gác, ở gác hai có treo một chiếc chuông đồng to đúc năm Mậu Dần 1938 tại Hà Nội. Trên chuông và đại tự điều nghi chùa Liên Hoa Tự. Chùa được kiến trúc xây dựng ba cung: Hạ đường, trung đường, Tiền đường. Tiền đường gồm ba gian hai trái, chiều dài 8m, chiều sâu 10m. Phía trước sân có một tấm bia, hai bên có gắn đôi câu đối bằng hồ si, ghi chữ quốc ngữ. Bên trong chùa có các bệ cao cho phật ngồi. Nhà ngoài là chỗ cho sư tụng kinh gõ mõ. Chùa lợp ngói bình thường, mái thấp, có diện tích là 80m2. Chùa có 18 pho tượng Phật bằng gỗ được sơn son thếp vàng. Trong đó có nhniều câu đối, đại tự[14].

Đền Đức Ông

Được xây dựng trong khuôn viên riêng biệt trong quần thể kiến trúc của nghè Diêm Phố. Ngôi đền có ba gian, phía trong cùng là chính tẩm, có bệ thờ đặt ở giữa, trên bệ thờ đặt ngai, trong ngai có bài vị đều sơn son thếp vàng, trước ngai là bát hương, hai bên bát hương đặt hai chân cây nến đồng, trước bát hương là hòm sắc sơn son thếp vàng[14].

Tiếp theo với chính tẩm là tiền đường, giữa tiền đường giáp với cửa chính tẩm xây một bệ lớn, trên bệ đặt một bát hương Đức Ông, hai bên bát hương là hai cây gươm, trước bát hương là một mâm lớn làm nơi bày lễ phẩm, hai bên là đôi hạt thờ bằng gỗ, trước mâm bài lễ là một bát hương lớn, hai cây chân nến bằng đồng đặt hai bên[14].

Qua một bức tường trước bệ thờ, xây một hòm lốn, chiều cao bằng bệ thờ, chiều dài 2m, chiều rộng chừng 0,70m xây bằng gạch, phía trước mặt và hai bên điều yểm kính trắng, bên trong hòm đựng ngọc cốt Đức Ông. Phía trên bức tường sát mái treo bức đại tự sơn son thếp vàng có ba chữ Hán, ‘‘Vạn Cổ Hương’’ (Hương thơm muôn đời), phía dưới treo hai đạo sắc, cả hai đạo sắc đều đặt trong khung kính rất trang trọng. Trên mặt hòm một đầu đặt mũ của Đức Ông được thêu kim tuyến màu vàng, một đầu đặt một thuyền rồng nhỏ cũng màu vàng rực rỡ. Cạnh nơi đặt mũ cắm một biển gỗ sơn son thếp vàng, lòng biển có hai chữ Hán ‘‘Hoàng Triều’’, hai bên góc hòm phía trước, mỗi bên cắm một thanh đao. Trước hòm cốt là khoảng nền rộng lạt gạch bát là nơi hành lễ[14].

Đền có ba cửa ra vào. Cửa chính ở giữa lớn hơn hai cửa bên. Phía trên cửa sát mái đền treo bức đại tự ‘‘Đức Ngư Ông Tôn Thần’’ Hai bên hè giáp với hai cửa phụ là hai tượng Ông Giám canh cửa. Trước hè là sân lát gạch bát. Phía phải ngôi đền có một gian nhà nhỏ là nơi của ông Từ, trước sân là cổng được xây bằng gạch, hai cánh cửa bằng gỗ[14].

Miếu 344 người

Nơi thờ vong hồn 344 người dân Diêm Phổ đi biển bị bão cuốn chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1931. Miếu ở cạnh phủ thờ cá ông về phía đông mặt miếu ngoảnh hướng bắc. Miếu có kiến trúc rất nhỏ, gồm một gian, bên trong có một bệ thờ, để bát hương, bài vị thờ, bên phải có mô hình bè mảng, bên trên đặt một số ngư cụ dùng trong nghề đi biển, phía bên trái của miếu có hình long châu cỡ nhỏ đặt trong tủ kính[14].

Như vậy, mặc dù xây dựng chung trên một khu đất, nhưng nghè, đền, chùa, miếu, phủ được cấu trúc theo đặc điểm riêng của từng loại tính ngưỡng, tôn giáo, độc lập hoàn toàn cả về nội dung và hình thức. Hiện nay khu kiến trúc Diêm Phố đã được tỉnh cấp bằng hạng di tích văn hóa[14].

Các di tích khác

  • Từ đường họ Đặng, di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh[15].

Liên quan